Tên di sản : Đền thờ Bia ký Tể tướng Lê Hy
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 921 QĐ/BT
Giới thiệu
Theo tư liệu khảo sát nghiên cứu thực địa tại các thôn trong xã Đông Khê – Đông Sơn. Từ xưa ở khu vực Đông Khê, Đông Hoàng thuộc Đông Sơn có một Mau lớn. Mau này là do quá trình đổi dòng sông. Toàn bộ mau dài 4,5km, quanh năm không bao giờ cạn nước. Từ xưa n��i hai bờ của làng Thượng chợ Rủn đã cho xây dựng ở đây một cầu đá 36 nhịp. Mỗi nhịp có chiều dài 2m, toàn bộ cầu dài 72m. Mỗi nhịp có 3 tấm đá dài 2m, rộng từ 65cm đến 70cm, dày 12cm đến 15cm, nặng mỗi tấm từ 5 – 7tạ. Cầu bắc đơn giản bằng đá đục đẽo mặt phẳng trên và các góc cạnh, còn mặt dưới tương đối phẳng. Đặt 36 nhịp có 37 bộ vì dầm chống giằng đỡ các tấm đá lát nhịp.
Mộ khu vực xã Thạch Khê có nhiều tiến sĩ, cử nhân, quan lại nên việc xác định mộ là một vấn đề. Trước hết xét mộ:
Mộ Mau Ươi:
Mau có cồn hình con cá. Truyền rằng bố của Lê Hy đi tát nước thì mất tích, dân đi tìm thì có Cồn Mối mới tại cồn Hình con cá, nên nhân dân địa phương vẫn quen gọi là Cồn con cá mộ bố quan Tể tướng Lê Hy.
Khảo sát thực địa thì Mau Uơi là một khu vực đồng trũng giữa khoảng 2 bên là đồng cao có khe nước từ các nơi đổ về, tạo thế Long chầu hổ phục (thuyết địa lý). Trong khu vực thân đất cao vừa (đồng vàn) có một cái gò nổi lên rộng 3km, dài 20m, có độ cao hơn mặt ruộng cao lúa 30cm. Gần giữa chính cồn có một mộ đất cao lâu ngày không có người trông nom, một ngôi mộ cũ đã bị cây rưới mọc che khuất bia. Sau khi phát quang thấy một tấm bia đá cũ, nét chữ còn mờ. Đề rằng: “Hiển khảo chánh Tông Lê phù quân đặt phúc Liêm – Mộ chí – Vinh Phụng thủ”. Tấm bia mộ có kích thước: Cao 35cm, rộng 25cm, dày 7cm. Tuy bia mộ nhưng không trang trí cầu kỳ; phần trán bia cao 9cm; rộng hơn thân bia có chiều rộng 30cm, trang trí hình rồng hóa – mặt hổ phù đan chen vân, hoa lá dây leo cách điệu. Hai diềm hai bên cũng chạm trổ cầu kỳ, hình dây leo hóa rồng. Khu Mau có diện tích 1 mẫu, 6 sào, 5 thước. Khu Mau này hiện tại cạn lấp thành chân ruộng sâu có thể cấy 1 vụ (vụ đông xuân), còn 1 vụ chỉ cấy phần cạn xung quanh khoảng 1 mẫu (5000 m2).
Mộ Tể tướng:
Cách mộ Hiển Khảo không xa về phía Nam khoảng 150m, là một gò đất cao. Phía Đông gò bị một con mương tiêu cắt khu gò theo trục Nam – Bắc. Cách bờ mương phía Đông 3m hiện tại là một bãi nhỏ (thân cao hơn ruộng) có diện tích hình thanh đáy nhỏ hướng Nam, dài 5m; đáy lớn hướng Bắc có chiều dài 10m. Với chiều cao bờ mương có chiều dài 12m. Giữa miếng đất cao là 1 ngôi mộ, theo người dân địa phương cho biết: vào đầu tháng 12 năm 1993 có hiện tượng kẻ gian đào bới.
Các di vật thu thập được qua hội thảo dám định chuyên môn xác định: thấy hợp chất có màu nâu vàng nhạt, thô. Vậy đây là một loại mộ hợp chất muộn có niên đại từ 250 – 300 năm.
Khu Đồng Dinh:
Đồng Bãi Dinh, là một bãi phía Bắc, sau làng cách bia Lê Hy 80m về phía Tây Bắc. Với diện tích bãi cao độ 60m x 80m =4.800m2, theo các cụ cao niên của làng truyền lại: Khi Lê Hy là Thượng Thư Lục Bộ có tổ chức xây dựng một dinh thự tại quê, nơi đất hẹp, công việc đang tiến hành thì Lê Hy mất, nên dang dở. Duy chỉ có tấm bia to đã khắc xong. Sau đó chuyển về làng (hường Đông Nam). Kéo về đến Trổng – Rọc Trùng hiện nay (tức là một khoảng đồng sâu sau làng, trước dinh) do bia quá nặng gặp nước và đất mền lún sâu lâu ngày lấp mất. Hiện tại ở xứ Đồng Dinh còn nhiều di vật mảnh gạch, mảnh đá bị vùi lấp mỗi khi làm đồng lại nhặt thấy nhiều.
Bia Lê Hy:
Theo tư liệu khảo sát, ngày xưa khi mới dựng bia là chưa khắc chữ, đến thời nhà Nguyễn mới khắc chữ và gia tam cấp.
Bia khắc chữ vào ngày 25/11/1870 niên đại Tự Đức thứ 23 năm Canh Ngọ. Soạn văn bia là Lê Văn Thạc; Đại phu nguyên Đốc học Nam Định gia phong tam cấp là Lê Văn Thạc; người viết bia tú tài là Lê Như Hải; thợ khắc bia là Hoàng Đăng Châu; bia dựng theo hướng nam, (cao 2,42m; rộng 1,40m; dày (sâu) 0,35m) bia khắc chữ hai mặt (mặt trước 28 hàng; chữ còn rõ nét); mặt sau 22 hàng, có bị nhòe một vài chữ.
Nội dung văn bia:
Mặt trước văn bia: Ghi quê quán của Lê Tể Tướng, lý do dựng bia, ngày tháng năm soạn văn bia; tóm tắt tiểu sử của Lê Hy
Mặt phía sau: Từ đường viên tam cao. Diện tích là 3 sao tương đương với 1500m2.
Lý trưởng, phó lý, hội vạn 28 người, viên chức 228 người, chức danh, họ tên kèm theo. Bia có cấu tạo 3 phần: Mũ, thân và đế.
Mũ bia lại chia làm 4 phần: Đỉnh mũ là một khối chữ nhật dựng đứng cao 25cm, ngang rộng 22cm; dày 18cm. Phía trên đỉnh trạm cạnh thể hiện sự ngay thẳng đồng thời thể hiện tính cách của Lê Hy – khác với các bia cùng thời phần này hoặc là bông sen hoặc nậm rượu…tiếp đến khối chữ nhật nằm ngang cao 10cm, dài 40cm, dày 30cm. Đến mái có độ vòm ra 4 phía đỡ 2 phần trên, phía trước chạm cặp rồng chầu nhật, rồng khỏe mạnh hóa vân tia lửa, kiểu kiến trúc thời Nguyễn. Phần đỡ mái là lớp gờ lượn 4 mặt có chiều cao 8cm, cạnh trước và sau dài 150cm, hai cạnh bên 52cm; ở 4 góc nhô vút lên kiểu mái đình đều cấu trúc 4 phần hài hòa khỏe mạnh là khối liền giữa mũ và thân. Thân bia liền khối với mũ mai mạt, không trang trí cầu kì chỉ hai mặt trước sau. Phía trên là chỉ phụ cao 3m, dài bằng chiều ngang bia 1,40m; hai chỉ hai bên và dài bằng chiều cao thân bia 1,65m; rộng 12cm; phần chỉ phần đáy cũng như hai chỉ bên. Lớp thứ 2 trên trán bia là một gờ cao 10cm. Chia làm 5 ô vuông chạm cạnh bằng nhau xen kẽ 4 ô chữ nhật. 5 ô vuông chạm cạnh đề 5 chữ (từ phải sang trái: “Lê – Tể - Tướng – Bi – Ký” nét chữ nổi, sắc nét. Tiếp đến lớp chỉ trong cửa 2 đố bên và đáy thấp xuống 1,5cm; rộng 3cm, bao 3 mặt. Trong cùng là phần văn bia, hai mặt trang trí giống nhau; đế bia là 1 khối đá liền dài 2,06m; ngang đế 1,16m; đáy đế 0,70m; đế chia làm 3 cấp.
Đền thờ Lê Hy:
Đền thờ xây dựng trên một thửa đất có diện tích 3 sào (1500m2) các cụ cao niên trong làng cho biết công trình bao gồm:
Hai ngôi nhà hướng Đông, bia hướng Nam, chen giữa là sân.
Ngoài cùng là sân đất dài 20m, rộng 7m.
Sân gạch rộng 5m, dài 8m. Có tường bao quanh, giữa có cổng và bức bình phong, rẽ hai bên vào gian 2 và gian 4. Hai bên hồi ngôi Tiền đường có hai cây cột nanh (cột đèn). Tiếp đến ngôi đền 5 gian Tiền đường, dài 16m; rộng 7,5m; kiến trúc chồng rường bẩy kẻ 2 hồi ở giữa kẻ chuyền vật liệu là gỗ lim, xây tường đá.
Qua một sân hẹp 4m, dài 16m.
Phía bắc là tấm bia Lê tể tướng bi ký, bia quay mặt vào sân về hướng Nam. Cuối cùng là ngôi chính điện 3 gian. Hiện nay, chuyển giao cho dân dài 9m, rộng 6m làm bằng gỗ lim kiểu chồng rường, bẩy kẻ, 2 vì bên, hai vì giữa là kẻ chuyền.
Chính gian giữa thờ Lê Hy và bố mẹ ông.
Nhà Tiền đường chỉ để bộ bửu và sập khi tế rước. Hiện còn lưu giữ một đôi câu đối.